Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015

HÙNG NGUYỄN (Boston) : Dưới con mắt của Nhà báo Nguyễn Lâm Cúc (Bình Thuận-Việt Nam)

 
(Nhà báo-Nhà thơ NGUYỄN LÂM CÚC)

*************************************************

NHỮNG DÒNG LỤC BÁT`PHÓNG ĐÃNG.

Monday, 24th September 2012
 alt

hungboston.vnweblogs.com

NLC

        Đây là lần thứ hai tôi đọc câu thơ táo tợn, thách thức “xỉa” vào đời sống vợ chồng, một lĩnh vực mà biên độ nhạy cảm là xa tận chân trời.

Lần thứ nhất đó là câu thơ “ Em có bỏ chồng về với tôi không?” của nhà thơ Đồng Đức Bốn. Lần này là nguyên một bài tứ tuyệt mà ngay cái tựa đề đã gây sức ép cho một nửa loài người “ Bên biển nhớ vợ…người” của anh Nguyễn Hùng: “Biển buồn nhớ vợ…người ta/ Tiếc ngàn hải lý bơi qua bán cầu/ Nhậu chiều uống chậm say mau/ Thương con cá lội chảo dầu réo sôi”

            Cả hai tác giả đều là những nhà thơ viết Lục Bát giỏi. Người yêu thơ Việt Nam ít nhiều đều biết đến những bài Lục Bát mềm mại, êm đềm mang hình bóng cây tre, bến nước, con đò, dòng sông của  miền quê Việt Nam của nhà thơ Đồng Đức Bốn. Riêng nhà thơ Nguyễn Hùng, tôi đồ rằng anh chỉ phổ biến thơ mình qua blog của riêng anh và còn ít người thích thơ biết đến những bài Lục Bát của anh, nhất là Lục Bát Tứ Tuyệt dù rằng Anh có nét thơ lạ lùng: Lục Bát Phóng đãng: 
   Tháp Nhạn 
“Tháp đội trên đầu Linga/ Chờ con Nhạn mái Ta Bà về chơi/ Trời xanh thăm thẳm miền trời/ Chân Hời uể oải, mắt Hời xa xăm”
  Ôi, Maria
 Thế gian đâu thiếu sinh linh/ Chưa từng ân ái- Thụ tinh nỗi gì? Chim chưa hót nắng xuân thì/ Màng trinh chưa bục- Mắc gì chịu ơn!”

 Tôi đọc thơ của anh Nguyễn Hùng tại blog hung boston/Vnweblogs ở những ngày đầu anh vừa mở blog, nhưng phải đến loạt 31 bài tứ tuyệt Lục Bát Ký Sự thì bị thuyết phục hoàn toàn.



       Viếng Kim Cang Tự

“Đò tham chở mất tiếng chuông

Sang ngang tiếng mõ đâm buồn ngẩn ngơ

Níu tay La Hán đòi thơ

Thơ khua lóc cóc có chờ nỗi không?”



        Song Kiều Đối Ẩm

“ Việt kiều khóc với Thúy Kiều

Chúng mình chung cánh đò chiều sang ngang

Nàng…đĩ thõa, ta…điếm đàng

Tay chèo boải hoải xóm làng ngó lơ”

Tôi rất ghét phải thanh minh về tác giả vì cho rằng thích thơ và nói về thơ không liên quan gì đến đời sống của người mần thơ, nhưng hôm nay tôi buộc phải có những dòng về anh Nguyễn Hùng mà theo như anh ấy tự gọi là Hùng Boston. Tôi không biết gì về anh Hùng ngoài một điều do anh thông tin ở blog đó là anh đang định cư tại Mỹ. Tôi tin những dòng này có thể trấn an được tôi và…vv

            Với tôi, thơ hay không cần cố nhớ, đọc xong những câu thơ đó bám tâm trí dai nhách như ăn vạ. Hôm vừa rồi, tôi đọc com trong blog nhà văn Trần Nhương, Ông trả lời một comment khác thành hai câu thơ hay tuyệt: “Gió gì gọi gió Phương Nam/ Để trai xứ Bắc lòng tràn Cửu Long”. Tôi bị 31 bài Lục Bát của anh Nguyễn Hùng đeo bám kiểu này, chúng ‘giày vò” tôi theo một cách nào đó, càng lúc càng đòi hỏi, thôi thúc tôi phải gõ gì đó về chúng.

Gõ gì nghĩ? Ngay lúc này đây tôi không biết rồi tôi sẽ gõ gì, nói gì về những bài Lục Bát ma mị kia, tôi chỉ hiểu rằng gõ tay lên phím lần này của tôi, trước hết là tìm cho chính tôi lối thoát khỏi sự bủa vây của bầy chữ từ những bài thơ giang hồ. Ví dụ như tôi cứ nghĩ tôi sẽ sửa một chữa trong những bài này:

     Trái Lục Bát

Trèo lên lục bát hái thơ

Đem về dú ép sững sờ…thơ chua

Rằm đem câu lục cúng chùa

Thất kinh câu bát mất mùa lương tri

(Tôi muốn sửa chữ thứ bảy, dòng thứ hai thành chữ ôi: Đem về dú ép sững sờ…ôi chua) Chữ ôi sẽ tạo thành tiếng  kêu và né được việc lập từ của hai câu liền kề.

Hay như bài: 
    Trăng Gềnh Ráng

“Sẵn về Gềnh Ráng liên hoan

Hỏi Hàn thi sĩ có còn mê trăng

Ngày xưa trăng đáng mặt trăng

Nay trăng có chữa với thằng mua trăng

(Tôi muốn sửa hai chữ cuối, dòng thứ tư thành “bán cha”

Nay trăng có chữa với thằng bán cha. Xin lỗi vì chữ tôi dùng cũng “du đảng không kém”)

Sửa thơ người khác là điều tối kỵ. Tôi phạm vào điều tối kỵ này vì bị tính “ma” trong 31 bài Lục Bát kia “hành”. Mà đã bị “ma làm” thì mong được hưởng “tha bổng”.

…………

  Đã có nhiều nhà thơ nhọc công tìm kiếm, thử nghiệm và tung ra nhiều bài thơ cách tân thơ: cách tân hình thức, làm mới  nội dung, đưa con chữ  từ  hiền lành, sang trọng  thành những chữ đao búa, tục tỉu vào thơ. Có những nhà thơ làm mới thơ bằng thể loại từ một chữ ở mỗi câu, đến viết  mỗi câu thơ dài bằng Việt Nam sang Campuchia; từ viết có chấm, có phẩy đến viết chẳng còn dấu má hay chữ hoa, chữ hòe đầu dòng, cuối dòng gì nữa… Thơ Nguyễn Hùng không thế, chỉ là những bài Lục Bát. Câu sáu, câu tám quen thuộc. Nhưng đọc sẽ thấy rất mới mẻ, sảng khoái vì cách gieo vần, vì ý, tứ vì chữ dùng táo bạo. Tôi đồ rằng đạt được điều đó là vì tác giả viết không nhằm gửi cho ai, không nhằm in ở đâu, cũng chẳng cần biết có ai sẽ đọc hay không. Chính vì thế, nằm  trong những bài lục bát này sự phóng khoáng, tính du đảng, nét ngang tàng đều có mặt tất thảy. Nhưng  sau những điều đó, ẩn ở một tầng nào đó trong chữ, nghĩa bóng một chiếc gông cùm nào đó, một nỗi mất mát nào đó, một đau đớn còn tươi nguyên, đỏ tím nào đó…Và tất cả, trời ạ, trên tất cả là sự chân thành. Một sự chân thành tột bật. Chân thành đến rơm rớm vị tha.

 Nói về Lục bát, bất kỳ ai định viết thơ với thể loại này khó thoát ra khỏi chiếc bóng vĩ đại của Thi Hào Nguyễn Du, hoặc Ca Dao Hò Vè Nhân Gian. Vì vậy, số người viết thơ Lục Bát rất đông, nhưng những nhà thơ đương thời đã đứng được cùng thể loại này chỉ một vài.

            Xin chúc nhà thơ Nguyễn Hùng thành công cùng những giòng thơ Lục Bát nhiều sức cuốn hút.

_________________________

11 bài Thất ngôn tứ tiệt: TRĂNG - (Hùng Nguyễn)

 

      ĐỘI TRĂNG.
Ta đội vầng trăng trên mỏ ác  
Trăng cười Vương Mẫu, mắt đoan trang  
Ta đội vầng trăng qua cực lạc  
Trăng cười Võ Hậu, háng thênh thang.


 
     
       ĐỜN NHỊ.
Hồn trăng lõa thể trên cầm nguyệt  
Tức tưởi Sâm Thương xuống nhị huyền  
Thương ta hoàng hạc bay tứ xứ  
Em gẩy trăng vàng hát chợ phiên.


  

     TRĂNG VÀ TÓC.
Lược trăng da diết trên khe tóc  
Vườn hạnh em về róc rách suông  
Tháng Chạp bây chừ đêm lên muộn  
Em theo hồ nguyệt chải miền cong.


 

     TIỄN TRĂNG.
Tống biệt vầng trăng ra tác chiến  
Dốc phố ngần ngừ cốc rượu nghiêng  
Mai mốt giang hồ trăng xơ xác  
Biết kịp về không... rằm tháng Giêng?


  
   
      TRĂNG... MẬT.
Cổ trăng sức kéo bao nhiêu mật  
Cố chở mùa say ngọt địa tầng  
Đêm cứ mỏng dày trăm ân ái  
Mông đầy... trăng mật... ướt tới chân.


  

     THÁNG NÀY, TRĂNG...
Tháng này tuyết đậm trăng giấu bóng?  
Tháng này kinh nguyệt có đều không?  
Trăng đau bụng gió, trăng vàng bợt  
Em đau bụng máu, vú đỏ hồng.


  
  
     SẮC MÀU TRĂNG.
Gởi một vầng trăng nơi cửa Phật  
Chực rằm loa lóa sắc cà sa  
Giấu một người thương vào hiểm họa  
Nguyệt thực lòa xòa áo tình nhân.


  

     TRĂNG TRẺ CON.
Trăng buồn tự khuyết dăm ba bữa  
Làm mình làm mẩy dỗi người yêu  
Cưỡi gió anh về đêm hương liệu  
Trăng cười... vành vạnh hỏi Rằm chưa?


  

     NHÂN QUẢ TRĂNG.
Ta gieo hạt nắng thành trăng mọc  
Nên sáng long lanh cái mặt rằm  
Ta gieo hạt nhớ vào đáy mắt  
Nên ướt nhạt nhòa khắp đêm em.


    

       NỢ.
Mái chèo khuấy sóng trăng tan mất  
Thuyền khất nợ sông một đêm rằm  
Bài thơ khuynh đão miền nhục cảm  
Ta siết nợ người đúng trăm năm.


   

     TÌM TRĂNG LẠC.
Chạp rét đi tìm trăng thất lạc  
Hỏi gió qua đường gặp đâu không?  
Tuyết miền Bắc Mỹ lu loa khóc  
Nó trốn đi rồi... Về Việt Nam!

                                  (Hùng Nguyễn)


 

9 bài Lục bát tứ tiệt: TRĂNG (Phần 2) - Hùng Nguyễn.

 
     
     TRĂNG QUỲNH DAO.
 

Rượu Quỳnh vơi nửa chén Dao  
Bóng trăng say khướt đổ vào quần em  
Giọt hồng như lệ dỗi đêm  
Lóng la lóng lánh nhuộm mềm môi anh.


 
    

     TRĂNG MÒN.
 

Trăng nghèo đi ghế hạng ba  
Gió xô cọt kẹt thổi qua đêm người  
Lắc lư da cạn thịt vơi  
Ăn mòn bán nguyệt, em cười... bó tay.


 

      TRĂNG BIỂN.
 

Tình chiều trễ bến phu thê  
Con thuyền hoa chúc lạc về chiêm bao  
Buồm trăng đỏ ngấn lụa đào  
Vỗ tay ba tiếng kính chào trăm năm.


  

       TRĂNG TREO.

 

Chơi sang sắm hẳn cổ trăng  
Treo lên quan ải cho bằng người ta  
Chực hòng mỗi bước em qua  
Núng na núng nính mông và trăng... cương.


 

     TRĂNG RẰM.
 

Kiếm em... sợ chồng em ghen  
Chờ cho tối lửa tắt đèn về thăm  
Mưa điêu đã ướt chỗ nằm  
Vầng trăng lại ác đêm rằm sáng trưng.


   

     TRĂNG TƯƠI.
 

Tưởng trăng du đãng du côn  
Em co ro nép giấu hồn vào mưa  
Chợt trăng vằng vặc canh thừa  
Em rời miền ướt gùi xưa theo về.


  

     TRĂNG LỠ.
 

Trăng về quán cũ tìm thơ  
Thấy trên vách gió dán tờ dâm thi  
Rằng em chưa hết nguyệt kỳ  
Khuyết dăm ba bữa tròn thì quanh năm.


 
    

     TRĂNG THỀ.
 

Thế rồi lẫm chẫm yêu nhau  
Bùa mê thuốc lú hơi đâu chuộc về  
Mắt môi bày biện ê hề  
Mời trăng ngửa bóng giải thề Sâm thương.


 

     TRĂNG XA.
 

Bếp mùa ngâm Tuyết Nguyệt Phong  
Ai hay trăng buốt đêm đông xứ người  
Long Quân cuối đất bời bời  
Nhớ bầu vú ấm cùng trời Âu Cơ.

                                (HÙNG NGUYỄN)

Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2015

9 bài lục bát tứ tiệt: TRĂNG (phần I). -Hùng Nguyễn

 

        TRĂNG KỶ NỮ. 
Trăng nguyền làm đĩ cho thơ 
Phải mùa thơ dỡm trăng đơ sợi tình 
Đêm qua trăng cứng cả mình  
Thơ Hùng... náo nhiệt, dùng dình trăng... tan.

 

      TRĂNG TRÊN NÚI. 
Trăng lên đầu núi công khanh 
Trăng treo cổ chết trên nhành kỳ nam 
Dặt dìu gió nổi tà tâm 
Xông  hương tử khí khiêu dâm quạ vàng.

 

       TRĂNG DƯỚI BIỂN.  
Trăng lặn đáy biển mò kim  
Sóng cười, bảy nổi ba chìm... vớt lên  
Thuyền Thơ tứ chiếng dập dềnh  
Tưởng đâu trăng chết bắt đền hải đăng.

   

      TRĂNG HOA KỲ.  
Tiền Mỹ sạch hơn tiền mình  
Bởi hình tổng thống trên mình đô la  
Trăng Mỹ dơ hơn trăng nhà  
Bởi Cuội... trúng số, Hằng Nga... đứng đường.

  

      TRĂNG TRONG THƠ.  
Á ngờ ăng... trờ ăng trăng  
Bỗng ma thuật chữ biến Hằng ra tiên  
Vàng bay ngộ cõi minh thiền  
Qua ngàn cổ tích vẫn... tiền mãn kinh.

   

        HƯƠNG TRĂNG.  
Để trăng vào chổ kiến ruồi  
Mới nghe thấm thía cái mùi trăng thơm  
Để trăng vào chốn áo cơm  
Mới nghe trăng lợm như đờm ho lao.

    


      TRĂNG BÊN SÔNG.  
Trăng xưa chửa dám ở truồng  
Thương con nước nổi trăng buông đời mình  
Bến sông vằng vặc miếu đình  
Sóng không ra sóng uốn hình trăng cong.

  
      
       ẢO THUẬT TRĂNG.  
Múa tay ngả mũ chào mừng  
Hái trong khí quyển một vừng  trăng tươi  
Qua rằm trăng lại tân thời  
Phao câu trắng nhẩy, nụ cười trơn tru.

  
     
     TRĂNG GIÀ.  
Xin đừng chế giễu "trăng già"  
Trăng ngon đâu kém đàn bà làm thơ  
Sáng từ cái thuở mái tơ  
Cuối mùa e ấp nằm chờ gió đưa.

                         (HÙNG NGUYỄN & TRĂNG)